Thực hiện chương trình điều tra, lập danh lục khu hệ động, thực vật rừng ở VQG Bến En, 3 Khu BTTN Xuân Liên, Pù Luông, Pù Hu theo quyết định phê duyệt của Chủ tịch UBND tỉnh được hiểu là điều tra để tổng hợp thành một bảng thống kê toàn bộ các loài động vật, thực vật rừng đã gặp hoặc thu được tiêu bản trong từng khu rừng đặc dụng hay nói cách khác nó phản ánh khu rừng đặc dụng đó đang hiện diện bao nhiêu loài động vật, thực vật rừng; thông qua việc điều tra, thu thập mẫu vật các loài động, thực vật phục vụ trưng bày, nghiên cứu, quảng bá giá trị đa dạng sinh học của các khu rừng đặc dụng. Thông tin về số lượng loài, nhất là các loài theo thứ tự xếp hạng của IUCN, danh lục đỏ Việt Nam và Nghị định số 32/2006/NĐ-CP, ngày 30/3/2006 về ban hành Danh mục các loài động vật rừng, thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm và là loài nguy cấp quý hiếm ưu tiên bảo vệ theo Nghị định số 160/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ của Chính phủ là tiền đề cho các hoạt động bảo tồn, phát triển tiếp theo. Đây là cơ sở để các Ban QL rừng đặc dụng, các đơn vị liên quan tiến hành đồng bộ các hoạt động bảo tồn thiên nhiên, nghiên cứu khoa học và phát triển các hoạt động giáo dục bảo tồn và du lịch sinh thái trong tương lai.
Danh lục các loài động, thực vật ở một số khu rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh.
Sau 2 năm triển khai các hợp phần dự án, sản phẩm thu được sau các đợt điều tra, khảo sát thực địa là bảng dẫn liệu về thành phần loài động vật rừng, thực vật rừng ở các khu rừng đặc dụng như sau:
- Vườn quốc gia Bến En: Đã xác định được 2.947 loài động, thực vật (1.417 loài thực vật, 1.530 loài động vật) thuộc 1.730 chi của 503 họ; trong đó có 491 loài có tên trong Sách đỏ thế giới, 102 loài có tên trong Danh lục đỏ Việt Nam, 60 loài có tên trong Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Đồng thời xây dựng được 900 mẫu tiêu bản thực vật, 12 mẫu tiêu bản động vật nổi, 154 mẫu tiêu bản động vật đáy, 35 mẫu tiêu bản cá, 215 mẫu tiêu bản côn trùng, 36 mẫu tiêu bản chim, 14 mẫu tiêu bản thú, 38 mẫu tiêu bản lưỡng cư, 42 mẫu tiêu bản bò sát.
- Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên: Hệ thực vật ghi nhận 1.142 loài thuộc 620 chi của 180 họ (trong đó có 45 loài thực vật quý hiếm thuộc đối tượng ưu tiên bảo vệ theo Nghị định số 160/2013/NĐ-CP của Chính phủ; 35 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam; 10 loài có tên trong Danh lục đỏ Thế giới; 8 loài có tên trong Nghị Định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ). Hệ động vật đã ghi nhận 1.631 loài thuộc 209 họ, 38 bộ, 4 lớp (80 loài thú; 192 loài chim; 41 loài bò sát; 36 loài lưỡng cư; 1282 loài Côn trùng), trong số đó có 29 loài đe doạ toàn cầu có tên trong Danh lục đỏ Thế giới, 50 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam, 44 loài có tên trong Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Hệ thuỷ sinh vật và cá đã ghi nhận 69 loài cá thuộc 17 họ, 6 bộ (4 loài cá trong Sách Đỏ Việt Nam); 37 loài thực vật nổi thuộc 4 ngành; 24 loài động vật nổi thuộc 4 ngành; 22 loài động vật đáy. Đồng thời đã thu thập, xây dựng hệ thống tiêu bản mẫu vật và mẫu ảnh gồm 63 mẫu thú; 61 mẫu của 26 loài chim; 106 mẫu của 32 loài bò sát, lưỡng cư; 60 hộp mẫu tiêu bản côn trùng và 600 hộp mẫu tiêu bản thực vật.
- Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông: Xác định sự hiện diện của 1.542 loài thực vật và 908 loài động vật; trong đó có 363 loài động, thực vật có tên trong Danh lục đỏ Thế giới, 102 loài có tên trong Danh lục Đỏ Việt Nam 2007 và 63 loài có tên trong Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Đã thu thập, xây dựng hệ thống tiêu bản mẫu vật và mẫu ảnh phục vụ nghiên cứu, quảng bá, giáo dục môi trường với 1.800 mẫu tiêu bản thực vật, 2 mẫu tiêu bản động vật nổi, 164 mẫu tiêu bản động vật đáy, 36 mẫu tiêu bản cá, 160 mẫu tiêu bản côn trùng, 24 mẫu tiêu bản chim, 26 mẫu tiêu bản thú, 47 mẫu tiêu bản lưỡng cư, 33 mẫu tiêu bản bò sát.
- Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu: Định danh 2.250 loài động, thực vật (881 loài động vật, 1.369 loài thực vật) thuộc 405 họ, trong đó có 347 loài động, thực vật có tên trong Danh lục đỏ Thế giới, 85 loài có tên trong Danh lục đỏ Việt Nam 2007 và 45 loài có tên trong Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Hoàn thành việc thu thập hệ thống mẫu vật, mẫu ảnh của 1.800 mẫu thực vật, 2 mẫu tiêu bản động vật nổi, 60 mẫu tiêu bản động vật đáy, 40 mẫu tiêu bản cá, 200 mẫu tiêu bản côn trùng, 31 mẫu tiêu bản chim, 19 mẫu tiêu bản thú, 26 mẫu tiêu bản lưỡng cư, 24 mẫu tiêu bản bò sát.
Một số vấn đề đặt ra sau lập Danh lục các loài động, thực vật ở các khu rừng đặc dụng.
- Mặc dù, việc điều tra, xác định sự hiện diện của các loài động, thực vật rừng đã có sự bổ sung đáng kể về số lượng loài ở từng khu rừng đặc dụng, đặc biệt là loài mới, loài ưu thế, loài đặc trưng và bổ sung thêm danh lục các loài động vật nổi, động vật đáy. Chẳng hạn Khu BTTN Xuân Liên ghi nhận thêm thông tin của 402 loài thực vật, 25 loài thú, 56 loài chim, 14 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư…; Vườn QG Bến En ghi nhận thêm thực vật 90 loài thực vật, 30 loài lớp cá, 215 loài côn trùng, 16 loài chim, 11 loài thú, 16 loài lưỡng cư và 13 loài bò sát…; Khu BTTN Pù Luông ghi nhận thêm 20 loài cá, 98 loài côn trùng, 13 loài thú…; Khu BTTN Pù Hu ghi nhận thêm 18 loài lưỡng cư, 25 loài bò sát, 25 loài chim, 14 loài thú, … nhưng vấn đề đặt ra đó là còn rất nhiều loài động, thực vật rừng đã từng được ghi nhận sự hiện diện trong các khu rừng đặc dụng nhưng trong quá trình điều tra, không còn bắt gặp ở tự nhiên như tại Khu BTTN Xuân Liên không còn bắt gặp 134 loài chim, 12 loài bò sát…, Khu BTTN Pù Hu không còn bắt gặp ở tự nhiên 5 loài lưỡng cư; 9 loài thú; 11 loài chim…, Khu BTTN Pù Luông không còn bắt gặp 7 loài cá, 86 loài côn trùng, 19 loài thú…, VQG Bến En không bắt gặp 39 loài cá, 391 loài côn trùng, 145 loài chim, 48 loài thú, 14 loài lưỡng cư, 13 loài bò sát… so với kết quả điều tra trước đây. Vẫn biết rằng, diễn thế phát triển tự nhiên của mỗi loài sinh vật có sinh, có mất, không kể đến những tác động bất lợi hay những hạn chế về điều kiện môi trường, kinh nghiệm, kỹ năng của người điều tra ảnh hưởng đến sự hiện diện của loài. Tuy nhiên việc đưa vào danh lục các loài chỉ thống kê, kế thừa qua tài liệu cần có những soát xét thấu đáo, tiếp cận khoa học, phản ánh đầy đủ, khách quan kết quả điều tra, nghiên cứu.
- Sau khi được chuyển giao kỹ thuật, thông tin, dẫn liệu kết quả điều tra, lập danh lục các loài động, thực vật rừng ở các khu rừng đặc dụng thì việc triển khai đầy đủ hoạt động giám sát phụ thuộc vào các ban quản lý, do đó dẫn đến tình trạng để phát huy kết quả nghiên cứu, cập nhật thông tin biến động hiện trạng loài, quần thể ảnh hưởng rất nhiều vào tính chủ động, năng lực chuyên môn của các đơn vị.
- Biến động về loài trong danh lục chịu ảnh hưởng rất lớn, có tính quyết định của điều kiện kinh tế - xã hội của nhân dân vùng đệm. Sự tồn tại, phát triển của loài phụ thuốc rất nhiều vào nhận thức, thói quen, phong tập tập quán săn bắn, khai thác động, thực vật của người dân vùng đệm các khu rừng đặc dụng.
- Cơ sở dữ liệu được xây dựng mới dừng lại ở việc quản lý, sử dụng trong nội bộ từng ban quản lý; thông tin, dữ liệu về loài, đa dạng sinh học chưa được quảng bá, tuyên truyền công khai, đầy đủ.
Giải pháp trọng tâm trong thời gian tới.
Để phát huy tốt hơn giá trị, thành quả công tác điều tra, lập danh lục các loài động, thực vật hiện có ở các khu rừng đặc dụng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và toàn tỉnh, đây không chỉ nỗ lực của các ban quản lý mà rất cần được sự quan tâm chỉ đạo của cả hệ thống chính trị, của các nhà khoa học, của các tổ chức trong và ngoài nước. Do vậy, thời gian tới cần tập trung thực hiện đồng bộ một số biện pháp trọng tâm sau:
Một là: Chú trọng đặc biệt về công tác đào tạo. Trước hết, phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, điều tra, giám sát đa dạng sinh học có năng lực chuyên môn, sử dụng tốt công nghệ thông tin, có khả năng nghiên cứu độc lập hoặc có khả năng hợp tác trong hoạt động điều gia, giám sát, cập nhật thông tin về loài, quần thể, quần xã trong các khu rừng đặc dụng.
Hai là: Tiếp tục xây dựng chương trình, kế hoạch điều tra, giám sát định kỳ, đột xuất để cập nhật những biến động về thông tin, dẫn liệu khoa học về tập tính, sinh thái, tình trạng, phân bố, cấu trúc, mật độ và số lượng cá thể, quần thể loài hiện có gắn với khai thác các tiềm năng, lợi thế của từng khu rừng đặc dụng trong thời gian tới.
Ba là: Các Ban quản lý rừng đặc dụng đẩy mạnh hoạt động điều tra cơ bản, tập trung điều tra, nghiên cứu về thành phần loài đối với các đối tượng chưa được điều tra như khu hệ nấm; tiếp tục thực hiện các điều tra cơ bản về thành phần loài đối với một số đối tượng ít nghiên cứu như: khu hệ chim, khu hệ cá và khu hệ côn trùng; nghiên cứu sâu về tập tính, sinh thái, phân bố, sinh trưởng và phát triển của một số loài động thực vật đặc thù của từng khu vực như linh trưởng, thú móng guốc, thú ăn thịt, hạt trần, ngọc lan...; nhân giống và bảo tồn một số loài động, thực vật bản địa quý hiếm; tiếp tục sưu tập, bổ sung hệ thống mẫu vật phục vụ nghiên cứu, quảng bá, học tập. Thực hiện ngay chương trình tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức về bảo tồn thiên nhiên đối với cộng đồng vùng đệm.
Bốn là: Tăng cường công tác tuần tra, bảo vệ rừng, trước mắt cần tổ chức thực hiện chính sách đồng quản lý, chính sách chia sẻ lợi ích rừng đặc dụng thông qua hoạt động du lịch sinh thái, sử dụng tài nguyên. Lượng hóa các dịch vụ hệ sinh thái làm cơ sở cho việc chi trả dịch vụ môi trường và tín dụng carbon. Đẩy mạnh đầu tư, khai thác, phát triển du lịch sinh thái; đầu tư phát triển vùng đệm, áp dụng, nghiên cứu phát triển các mô hình phát triển kinh tế cải thiện nâng cao sinh kế cho người dân địa phương để từ đó giảm áp lực vào các khu rừng, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Năm là: Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ với các tổ chức nghiên cứu khoa học có uy tín trong và ngoài nước trong công tác bảo tồn thiên nhiên. Chú trọng mối quan hệ với các tổ chức đã có quan hệ hợp tác trong những năm qua; tập trung hợp tác nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng công nghệ thông tin địa lý (GIS) và Viễn thám (RS) trong quản lý, bảo tồn, nghiên cứu, phục hồi các loài nguy cấp, quý hiếm. Nâng cao hiệu quả quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững rừng đặc dụng giai đoạn 2011-2020, có kế hoạch phân vùng quản lý cụ thể nhằm bảo tồn tính đa dạng sinh học đặc trưng của tiểu vùng, khu vực.
Sáu là: Tiếp tục hoàn chỉnh bộ cơ sở dữ liệu về danh lục các loài động, thực vật hiện có trong các khu rừng đặc dụng gắn với thực hiện việc đưa thông tin, dữ liệu về loài, quẩn thể, quần xã, hệ sinh thái lên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là trên Website của các tổ chức bảo tồn uy tín nhằm chia sẻ, quảng bá, tuyên truyền công khai thông tin gắn với thu hút đầu tư, nghiên cứu.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TÀI NGUYÊN ĐỘNG, THỰC VẬT RỪNG Ở CÁC KHU RỪNG ĐẶC DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
Lan hài (Paphiopedilum sp), Sơn dương (Capricornis sumatraensis) ở Khu BTTN Pù Luông
Sa mộc dầu (Cunninghamia konishii), Bò tót (Bos frontalis) ở Khu BTTN Xuân Liên
Cu li (Nycticebus bengalensis ), Lim xanh (Erythrophloeum fordii ) ở VQG Bến En
Ếch cây ki-ô (Rhacophorus kio); Thông Pà cò (Pinus kwangtungensis ) ở Khu bảo tồn loài Nam Động